Văn hóa Cao_Ly

Bát vạn Đại tạng kinh

Bát vạn đại tạng kinh (P'alman Taejanggyŏng, 팔만대장경, 八萬大藏經) hay Cao Ly đại tạng kinh (Koryŏ Taejanggyŏng, 고려 대장경, 高麗大藏經) là bộ kinh Tam tạng với khoảng 80.000 bài kinh Phật. Bộ kinh này được bảo tồn tại chùa Hải Ấn (Haeinsa, 해인사, 海印寺), tỉnh Khánh Thượng Nam (Kyŏngsangnam-to, 경상남도, 慶尙南道) - Hàn Quốc. Được biên soạn năm 1251 bởi vua Cao Tông trong một nỗ lực dùng đạo Phật để đấu tranh thoát khỏi sự xâm lăng của người Mông Cổ. Bộ kinh được giữ sạch sẽ bằng cách phơi khô ngoài trời hằng năm.

Nghệ thuật

Men ngọc bích Cao Ly

Bài chi tiết: Gốm sứ Triều Tiên
Lư hương ngọc bích, một trong những Báu vật Quốc gia của Hàn Quốc.

Đồ gốm Cao Ly được một số người cho rằng là loại gốm cầu kỳ và tỉ mỉ nhất trong lịch sử Triều Tiên. Hoa văn hình chữ triện, các kiểu trang trí hình lá cây, những dãi bông hoa cuộn tròn, những bảng dài hình ô van, côn trùng và cá được cách điệu và các mẫu khắc chạm bắt đầu xuất hiện tại thời kỳ này. Men thường có màu ngọc bích với nhiều tông khác nhau, với men có màu nâu đến màu gần như đen được sử dụng cho đồ gồm bằng đất sét có pha đá và vật dụng để chứa. Nước men ngọc bích có thể được tráng một lớp gần như trong suốt để lộ ra nền đen và trắng ở bên dưới.

Trong khi các dạng thường thấy là bình vai rộng, chén và tô cạn, hộp đựng đồ trang điểm cao cấp trang trí bằng men ngọc bích và tách trà tráng men nhỏ, đồ gốm dành cho đạo Phật có các loại bình hình quả dưa, chén trà hình hoa cúc với mẫu cấu trúc đẹp mắt đứng trên đài sen và hoa sen. Bát ăn xin có đường viền cong bên trong cũng cho thấy sự tương đồng với đồ dùng kim loại Triều Tiên. Tách uống rượu thường có chân cao gắn trên đế hình đĩa.

Kỹ thuật làm gốm

Ấm men lam hình rùa đầu rồng thời Cao Ly

Gốm có lõi rắn chắc bằng thạch gốm là một trong những thành phần then chốt; tuy vậy không nên nhầm lẫn với đồ sứ. Phần lõi ít sét, giàu thạch anhkali, gần như đồng nhất với thành phần của gốm việt (Yueh - 越) Trung Quốc, do đó, nhiều học giả cho rằng đây là xuất xứ của loại men ngọc bích Triều Tiên. Men là loại men tro với thuốc màu sắt, được đốt yếm khí trong một lò nung 'rồng' kiểu Trung Quốc cải tiến. Màu lam đặc thù của men Triều Tiên được hình thành từ thành phần sắt trong nước men với một lượng rất nhỏ tạp chất Titan, đã điều chỉnh màu sắc ngả sang xanh lá cây, như có thể thấy trong đồ gốm việt của Trung Quốc. Tuy nhiên, những người thợ gốm Cao Ly đã đưa đồ gốm Cao Ly đi theo một hướng khác so với các bậc tiền bối Trung Quốc; thay vì chỉ dựa vào duy nhất các mẫu được khắc vào lớp men trong, cuối cùng họ phát triển kỹ thuật thượng cam (sanggam, 上甘) dát màu đen (ma-nhê-tít) và trắng (thạch anh) để tạo nên sự tương phản đậm nét với nước men. Nhiều học giả cho rằng kỹ thuật này được phát triển như là một bộ phận của kỹ thuật khắc dát truyền thống trong gia công kim loại và tranh sơn mài của Triều Tiên, và cũng từ sự không thỏa mãn với hiệu ứng cận quan khi khắc dát dưới một lớp men ngọc bích dày.[4]

Khoa học kỹ thuật

Jikji, Các bài giảng chọn lọc của các Phật hữu và thiền sư, quyển sách in bằng máy in kim loại được biết đến sớm nhất vào năm 1377. Thư viện quốc gia Paris.

Vào năm 1234 máy in bằng cơ cấu kim loại chuyển động đầu tiên trên thế giới được phát minh bởi Thôi Duẫn Nghi (Ch'oe Yun-ŭi, 최윤의, 崔允儀) vào thời Cao Ly. Quyển sách "Tường định cổ kim lễ văn" (Sangjŏng Kogŭm Yemun, 상정고금예문, 詳定古今禮文) - sách hướng dẫn về lễ nghi xưa và nay - được in bằng khuôn kim loại di động vào năm 1234. Nền kỹ thuật Triều Tiên tiến một bước dài ở triều đại Cao Ly và có quan hệ mật thiết với nhà Tống. Ở triều đại này, kỹ thuật làm giấy và gốm sứ, nay đã mai một, bắt đầu được áp dụng để sản xuất quy mô.

Vào thời thoái triều, Cao Ly đã gần hoàn chỉnh loại súng thần công lắp trên thuyền. Vào năm 1356 những thí nghiệm sơ bộ đã được tiến hành với vũ khí dùng thuốc súng bắn ra đạn gỗ hay kim loại. Vào năm 1373 thí nghiệm với tên lửa và ống phóng lửa có thể là dạng sơ khai của hỏa xa đã được phát triển và lắp đặt trên các thuyền chiến của Triều Tiên. Chủ trương lắp đặt súng thần công và những vũ khí dùng thuốc súng khác đã tiếp nối tốt vào thời nhà Triều Tiên và vào khoảng năm 1410, hơn 160 thuyền chiến của Triều Tiên đã được lắp súng thần công. Thôi Mậu Tuyên (Ch'oe Musŏn, 최무선, 崔茂宣), một nhà phát minh Triều Tiên thời trung cổ, nhà khoa học và tướng lĩnh quân đội lần đầu tiên đã giới thiệu nhiều ứng dụng rộng rãi của thuốc súng cho Triều Tiên và chế tạo nhiều loại vũ khí dùng thuốc súng.

Nho giáo

Bài chi tiết: Nho giáo Triều Tiên

Vua Quang Tông (Kwangjong, 광종, 光宗), người đã cho thành lập khoa cử (kwagŏ, 과거, 科擧) - một trung tâm khảo thí quốc gia - và vua Thành Tông (Sŏngjong, 성종, 成宗) là những vị vua chủ chốt đã chính thức hóa Nho giáo. Vua Thành Tông cho thành lập Quốc tử giám (Kukchagam, 국자감, 國子監), là một cơ quan giáo dục cao nhất của nhà Cao Ly. Việc truyền bá Nho giáo được tạo điều kiện dễ dàng hơn sau khi Thành quân quán (Sŏnggyun'gwan, 성균관, 成均館) hay Thái học (T'aehak, 태학, 太學) được thành lập vào năm 1398 - đây là một học viện với chương trình giảng dạy về Nho giáo - và một thái miếu trong lâu đài, nơi nhà vua thờ phụng tổ tiên.

Phật giáo

Bức họa Quán Thế Âm thời Cao Ly vào năm 1310.

Thoạt đầu, phái Thiền tông (Sŏn, 선, 善) mới bị các phái kinh điển hiện hữu xem là tông phái cấp tiến và nguy hiểm mới nổi lên. Do đó, những người khai sáng các tu viện "cửu sơn - 九山" gặp phải sự chống đối quyết liệt, bị trấn áp bởi uy thế từ lâu trong triều đình của phái Giáo (Kyo, 교, 教). Sự tranh chấp xảy ra sau đó tiếp diễn gần suốt thời nhà Cao Ly, nhưng dần dần lý luận của Thiền tông về sự sở hữu của chân truyền giác ngộ đã giành được quyền hành cao hơn. Địa vị có được vào giai đoạn sau của Thiền tông nói chung là nhờ vai trò to lớn từ những nỗ lực của nhà sư Tri Nột (Chinul, 지눌, 知訥), đã không xem các phương pháp thiền định của Thiền tông có vị trí cao hơn mà còn tuyên bố tư tưởng Thiền tôngGiáo có sự tương đồng và sự thống nhất về mặt bản chất. Mặc dù cả hai trường phái đều để lại dấu ấn trong lịch sử, nhưng đến cuối triều đại, phái Thiền tông trở nên lấn át trong những ảnh hưởng của nó đến triều đình và xã hội cũng như trong những tác phẩm Phật học của nhiều học giả uyên thâm. Trong suốt triều đại Cao Ly, Thiền tông trở thành "quốc giáo", nhận được sự ủng hộ và nhiều đặc quyền rộng rãi thông qua mối quan hệ với gia quyến vương tộc và các thành viên quyền lực trong triều đình.

Mặc dù các tông phái kinh điển đã suy yếu trong hoạt động và tầm ảnh hưởng của mình vào thời điểm này do sự lớn mạnh của phái Thiền tông, tông phái Hoa Nghiêm (Hwaŏm, 화엄, 華嚴) vẫn tiếp tục là nguồn kiến thức sinh động của vương quốc Cao Ly, tông phái này đa phần kế tục từ các tông phái Nghĩa Sương (Ŭisang, 의상, 義湘) và Nguyên Hiểu (Wŏnhyo, 원효, 元曉). Đặc biệt, tác phẩm của Quân Như (Kyunyŏ, 균여, 均如; 923-973) đã mở đường cho sự hòa giải giữa hai phái Hoa NghiêmThiền tông với quan điểm hòa nhã của phái Hoa Nghiêm về sau này. Những tác phẩm của Quân Như là một nguồn tài liệu quan trọng cho nền học thuật hiện đại nhận diện bản chất đặc thù của phái Hoa Nghiêm Triều Tiên.

Một nhân vật quan trọng khác ủng hộ sự thống nhất Thiền/Giáo tông là Nghĩa Thiên (Ŭich'ŏn, 의천, 義天). Như hầu hết các nhà sư khác thời sơ Cao Ly, ông bắt đầu nghiên cứu Phật học theo tông phái Hoa Nghiêm. Sau đó, ông sang Trung Hoa, và ngay khi trở về, ông đã nhanh chóng truyền giảng Thiên đài tông (Ch'ŏnt'ae, 천태종, 天台宗), vốn trở nên dễ nhận ra là một phái Thiền tông khác. Do đó, giai đoạn này được mô tả là thời "ngũ giáo, lưỡng tông" (ogyo yangjong, 5교2육, 五教兩宗). Tuy nhiên, bản thân Nghĩa Thiên bị rất nhiều môn đồ Thiền tông xa lánh và ông đã qua đời khi còn tương đối trẻ mà không chứng kiến được sự hợp nhất Thiền - Giáo.

Nhân vật quan trọng nhất của phái Thiền tông dưới thời Cao Ly là Tri Nột (1158-1210). Vào thời đại của ông, giới tăng già đang khủng hoảng về giáo lý bên trong và ngoài đạo. Phật giáo dần chịu ảnh hưởng của những khuynh hướng thế tục và sự liên quan đến thế tục, như bói toán, cầu kinh và hành lễ cầu thành đạt trong những cố gắng thế tục. Sự xuống dốc này có nguyên nhân từ sự gia tăng ngày càng nhanh của số lượng các tăng ni với động cơ theo đạo đáng nghi ngờ. Do đó, chủ đề trừng giới, phục hồi niềm tin và cải tổ chất lượng Phật giáo là những chủ đề tranh cãi đáng chú ý của giới lãnh đạo Phật giáo thời bấy giờ.

Hoa Nghiêm kinh biến tướng đồ (Hwaŏmgyŏng Pyŏnsangdo, 화엄경변상도, 華嚴經變相圖), bức tranh minh họa sự truyền giảng kinh Hoa Nghiêm thời Cao Ly.

Tri Nột đeo đuổi việc hình thành một trào lưu mới bên trong Thiền tông Triều Tiên mà ông gọi là hội tam muội địa (samādhi - 三昧地) và bát nhã (prajñā - 般若) với mục tiêu tạo dựng một giáo phái mới với các bậc tu hành khổ luyện, tĩnh tâm ở sâu trong núi. Cuối cùng, ông cũng hoàn thành tâm nguyện với sự sáng lập chùa Tùng Quảng (Songgwangsa, 송광사, 松廣寺) trên đỉnh núi Tào Khê (Chogye, 조계, 曹溪). Các công trình của Tri Nột đã khẳng định đặc điểm riêng biệt của tông phái mình thông qua sự phân tích và công thức hóa một cách hoàn hảo phương pháp luận nghiên cứu và thực hành Thiền. Một cuộc tranh cãi lớn đã gây xáo động một thời gian dài trong phái Thiền tông Trung Hoa nhận được sự quan tâm sâu sắc từ Tri Nột, là mối quan hệ giữa phương pháp "tiệm" (từ từ) và "đốn" (ngay lập tức) trong hành và ngộ. Rút tỉa từ sự luận bàn của người Trung Hoa về chủ đề này, quan trọng nhất là của Tông Mật (Zongmi, 宗密; 780-841) và Đại Tuệ (Dahui, 大慧; 1089-1163), Tri Nột đã sáng tạo ra phương pháp tự chứng "đột ngộ từ tiệm hành" (giác ngộ nhanh từ thực hành chậm), ông đã phác thảo một số bài giảng tương đối súc tích và dễ hiểu về phương pháp này. Tri Nột cũng đã hợp nhất phương pháp quán thoại (kwanhwa, 관훈, 觀話) vào hành pháp của Đại Tuệ. Dạng tham thiền này là phương pháp chính được dạy trong Thiền tông Triều Tiên ngày nay. Quan điểm trung dung của Tri Nột trong mâu thuẫn giữa Thiền - Giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến Phật giáo Triều Tiên.

Trào lưu chung của Phật giáo vào nửa sau của triều đại Cao Ly đã đi xuống vì tham nhũng và sự gia tăng của tư tưởng chính trị và triết học bài Phật giáo mạnh mẽ. Tuy nhiên, dù đã sa sút nhưng thời kỳ này cũng xuất hiện một vài trong số những cao tăng kiệt xuất nhất của Thiền tông Triều Tiên. Ba vị sư nổi tiếng nhất của thời kỳ này, những người đã ghi lại tên tuổi của mình một cách xuất sắc trong việc vẽ nên đường tương lai của Thiền tông Triều Tiên, vừa là đồng đạo vừa là thân hữu: Cảnh Nhàn Bạch Vân (Kyŏnghan Baeg'un, 경한백운, 景閑白雲; 1298-1374), Thái Cổ Phổ Ngu (T'aego Pou, 태고보우, 太古普愚; 1301-1382) và Lãn Ông Tuệ Cần (Naong Hyegŭn, 나옹혜근, 懶翁慧勤; 1320-1376). Cả ba ông đều đến nhà Nguyên Trung Quốc để học phép giảng Lâm tế (臨濟; Imje trong tiếng Triều Tiên) quán thoại vốn đã được Tri Nột truyền bá. Sau khi trở về, cả ba người đã xây dựng những phương pháp sâu sắc có đối chiếu của phái Lâm tế cho phép giảng của họ. Mỗi người được cho là thu nạp hằng trăm môn đồ, cho thấy phương pháp này đưa vào Thiền tông Triều Tiên đã mang lại một hiệu quả rất đáng kể. Bất chấp sự ảnh hưởng của Lâm tế, một phương pháp cơ bản bị cho là chống giáo về bản chất, Cảnh Nhàn và Lãn Ông, dưới ảnh hưởng của Tri Nột và trào lưu thông Phật giáo (t'ong pulgyo, 통불교, 通佛敎) truyền thống, cho thấy một sự quan tâm hơn bình thường vào nghiên cứu kinh kệ, cũng như sự hiểu biết sâu sắc về Nho giáoLão giáo do sự ảnh hưởng ngày càng tăng của triết học Trung Hoa như là nền tảng của hệ thống giáo dục chính quy. Từ giai đoạn này, xuất hiện một xu hướng đáng ghi nhớ dành cho giới tăng ni Phật giáo Triều Tiên đó là "tam pháp luận".

Một sự kiện lịch sử trọng đại ở thời Cao Ly là sự xuất bản bản khắc gỗ đầu tiên của bộ kinh Tam tạng được gọi là Bát vạn đại tạng kinh. Hai bản đã được khắc, bản đầu tiên bắt đầu từ năm 1210 đến năm 1231 thì hoàn thành và bản thứ hai từ năm 1214 đến năm 1259 thì hoàn thành. Bản đầu tiên bị hủy hoại do hỏa hoạn trong một cuộc tấn công của quân Mông Cổ vào năm 1232, còn bản thứ hai vẫn còn tồn tại đến ngày nay và được lưu giữ tại chùa Hải ấn, tỉnh Khánh Thượng Nam (Kyŏngsangnam). Bản kinh Tam tạng này có chất lượng cao và được xem như là phiên bản chuẩn của kinh Tam tạng tại Đông Á trong gần 700 năm.